Tài liệu này nhằm hỗ trợ giáo viên dạy bơi, cơ sở dạy bơi và người điều hành hồ bơi có trẻ em và người lớn tham gia học bơi trở lại sau thời gian đóng cửa do COVID-19.
Như đối với tất cả các môi trường, vẫn có một mức độ rủi ro lây truyền COVID-19 trong môi trường dưới nước, đòi hỏi phải thực hiện các biện pháp kiểm soát.
1. Phân công một người quản lý các lớp học bơi sau COVID-19.
Nhân viên này phải đảm bảo họ luôn cập nhật các khuyến cáo của chính quyền trung ương hoặc địa phương, đồng thời nắm vững các quy định phòng, chống dịch do cơ sở đặt ra để xem xét thường xuyên việc tuân thủ các quy định này trong thực tế của các lớp dạy bơi. Điều này sẽ cung cấp một cách tiếp cận nhất quán trong chương trình học bơi của cơ sở.
Nhân viên này không nhất thiết phải có mặt trong tất cả các buổi học bơi, nhưng phải chịu trách nhiệm phân bổ hợp lý số lượng giáo viên dạy bơi trên thành hồ để đảm bảo quy định giãn cách xã hội và đảm bảo các giáo viên trong ca được đào tạo thích hợp để đảm bảo việc tuân thủ tất cả các thủ tục liên quan đến phòng, chống COVID-19 trong suốt ca làm việc của họ.
Mỗi ca nên có một người chuyên trách chịu trách nhiệm về các nhiệm vụ COVID-19
2. Trước buổi học, các giáo viên dạy bơi cần được cung cấp một danh sách kiểm tra (check list) các công việc cần làm để đảm bảo quy định phòng, chống COVID-19
Danh sách kiểm tra bao gồm các thủ tục cần làm đối với giáo viên dạy bơi trước khi bắt đầu ca làm việc của họ, như: tiếp nhận và nêu các quy tắc mới trong dạy bơi cho học viên (cách thức thực hành, những điều được làm và không được làm trong lúc tập luyện), sắp xếp và chùi rửa dụng cụ tập luyện, rửa tay và đeo kính chắn giọt bắn, …
Cơ sở dạy bơi nên khuyến cáo phụ huynh bắt đầu tập cho trẻ tự đội mũ và kính bơi vì giáo viên sẽ không thể làm điều này dùm con của họ.
3. Khi dạy bơi, giáo viên dạy bơi nên giảng dạy khi đứng trên thành hồ
Cách thức giảng dạy khi đứng trên thành hồ nhằm đảm bảo quy định giãn cách xã hội hiện tại. Việc này đồng nghĩa với việc giáo viên cần điều chỉnh phương pháp truyền đạt để đảm bảo việc chuyển giao bài giảng hiệu quả khi việc tiếp xúc trực tiếp người-với-người không thể thực hiện được. Các giải pháp thay thế bao gồm nắm tay trên thành hồ, dùng thanh nổi (noodle), ván bơi hoặc các dụng cụ nổi khác.
Vì vậy, khi nhận đăng ký học bơi trong mùa dịch, các cơ sở dạy bơi cũng phải nêu rõ cách thức giảng dạy mới này để học viên nắm bắt trước và có quyết định lựa chọn.
Việc lựa chọn các phương pháp giao tiếp hiệu quả nhất khi giảng dạy đứng trên thành hồ sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau: kích thước của hồ bơi hoặc diện tích của hồ bơi đang được sử dụng, quy mô của nhóm học viên, năng lực của nhóm, các loại hoạt động đang được thực hiện, vị trí tốt nhất để quan sát và giám sát cả nhóm, vị trí tốt nhất để tất cả học viên có thể nghe và nhìn thấy giáo viên.
Cũng cần cân nhắc việc sử dụng hệ thống loa nếu điều này có lợi.
Tuy nhiên, nếu có nhu cầu cụ thể về việc giáo viên phải giảng dạy ở dưới nước thì trách nhiệm chuyên môn của giáo viên và người điều hành là đánh giá toàn diện rủi ro và đảm bảo tuân thủ các biện pháp an toàn phù hợp.
4. Khi dạy bơi, giáo viên nên tuân thủ hướng dẫn của chính phủ về giãn cách xã hội
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên dạy bơi nên đứng ở một vị trí giảng dạy cố định (một trạm) trong suốt ca làm việc của họ và hướng đến việc sử dụng cùng một dụng cụ trong suốt thời gian để giảm khả năng lây nhiễm chéo; tránh đi tới đi lui, thay đổi vị trí quá nhiều trên thành hồ trong khi giảng dạy.
Cân nhắc quy định cách di chuyển nhất quán cả ở dưới nước (của học viên) và xung quanh thành hồ (của giáo viên) để giảm bớt sự băng ngang qua lại giữa các nhóm và thúc đẩy thực hành giãn cách xã hội. Ví dụ, người học và người dạy đều di chuyển theo một lộ trình theo chiều kim đồng hồ.
Cung cấp các trạm làm sạch tay và các thùng rác bổ sung trên sàn hồ bơi để đựng khăn giấy.
5. Việc sử dụng khẩu trang và / hoặc tấm che mặt
Giáo viên dạy bơi phải đảm bảo rằng trong suốt quá trình đứng lớp TẤT CẢ buổi học (và việc theo dõi của người xem), sự giãn cách xã hội là mối quan tâm hàng đầu và việc duy trì giãn cách xã hội là điều tối quan trọng. KHÔNG nên sử dụng khẩu trang / tấm che mặt như một giải pháp thay thế cho giãn cách xã hội.
Những người tham gia, cha mẹ và người chăm sóc cũng nên đeo khẩu trang khi ra vào cơ sở. Điều này bao gồm việc sử dụng khẩu trang trong phòng thay đồ và trong khu vực ngồi xem.
- Khẩu trang không nhằm mục đích bảo vệ người đeo mà là để giảm nguy cơ lây lan COVID-19 từ người đeo (người có thể không có bất kỳ triệu chứng bệnh nào).
- Những người đeo khẩu trang phải được nhắc nhở không chạm vào khẩu trang và rửa tay thường xuyên. Cần cung cấp thông tin cho tất cả nhân viên và phụ huynh về việc sử dụng khẩu trang an toàn.
- Nếu đeo khẩu trang, chúng phải sạch sẽ và không được dùng chung hoặc chuyền tay cho các đồng nghiệp khác.
- KHÔNG đeo khẩu trang khi xuống nước.
6. Dành đủ thời gian giữa các buổi học để làm sạch và giảm nguy cơ tụ họp các nhóm
Đảm bảo có đủ thời gian cho một lịch trình vệ sinh và dọn dẹp thích hợp, và có thời gian để các nhóm phân tán, tránh tụ tập. Đảm bảo các điểm ra vào khác nhau của hồ bơi cho tất cả người bơi nếu có thể.
Mỗi trẻ chỉ được phép có một phụ huynh giám sát con trong quá trình học bơi.
Giáo viên nên ưu tiên đưa ra cách “trèo lên khỏi hồ” hơn là sử dụng các cầu thang nếu có thể. Điều này sẽ làm giảm lượng tiếp xúc với thiết bị.
Chia sẻ hướng dẫn cho người dùng hồ bơi về những gì cần mang theo và khung thời gian khi đến, chuẩn bị video hoặc sơ đồ hướng dẫn / tương tác về hành trình của khách hàng đến và đi qua các phòng thay đồ đến sàn hồ bơi để người tham gia biết điều gì cần thực hiện.
Cho phép thời gian thay đồ phù hợp, tránh chồng lấn giữa các buổi học.
Sắp xếp lại các khóa học với ưu tiên các buổi học Một kèm Một, các buổi học dành cho các thành viên gia đình.
Cân nhắc thời gian bắt đầu so le để giảm bớt số lượng người bơi đến sàn hồ bơi cùng một lúc.
7. Tất cả các thiết bị phải được làm sạch và vệ sinh trước và sau mỗi hoạt động
Đảm bảo việc sử dụng thiết bị được kiểm soát trong môi trường buổi học và đảm bảo mỗi giáo viên chịu trách nhiệm về dụng cụ buổi học của mình và quy trình làm sạch thiết bị trước, trong và sau buổi học.
Mỗi giáo viên dạy bơi có quyền sử dụng xô hoặc gào múc nước để xối rửa khu vực dạy học phù hợp.
Thiết bị không thể khử trùng bằng clo (ví dụ, các bề mặt ở khu vực giao thông cao như tay vịn và móc khăn) nên được làm sạch một cách thích hợp giữa các hoạt động.
Phân bổ một bộ thiết bị cho mỗi giáo viên trong cả ca làm việc. Giáo viên có thể sử dụng hộp hoặc túi đựng đồ nghề để đựng các thiết bị giống nhau và sẵn sàng được làm sạch sau mỗi buổi học và vào cuối ca trước khi cất giữ.
Cân nhắc khuyến khích học viên mang theo thiết bị của riêng họ (chẳng hạn ván đập chân nhỏ) để tiện việc sử dụng cho mục đích cá nhân.
Không cho phép người học dùng chung thiết bị. Giáo viên có thể đánh số hoặc dùng mã màu khác nhau cho từng ván nổi và phân bổ số ván nổi cho mỗi người học khi bắt đầu buổi học.
Ngừng hành vi cho mượn kính, mũ và thiết bị. Cân nhắc bán thiết bị cơ bản cho người học ở những nơi thích hợp để họ dùng cho buổi học của mình.
8. Phương pháp bố trí và tổ chức hồ bơi cần được sửa đổi để hỗ trợ việc cung cấp các buổi học bơi đồng thời tuân thủ các hướng dẫn về giãn cách xã hội
Trẻ em từ 8 tuổi trở xuống, những người chưa biết bơi và những người mới bắt đầu học bơi sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì khoảng cách phù hợp với nhau. Do đó, bất kỳ buổi học nào được lập chương trình trong hồ bơi cho trẻ em ở độ tuổi này cần được giám sát mọi lúc và nên đưa ra các biện pháp để giảm thiểu sự tiếp xúc giữa trẻ em. Giáo viên có thể tuân theo các hướng dẫn về giãn cách xã hội nhưng người học khó giữ được giãn cách xã hội trong khi di chuyển trong nước. Vì vậy, các yêu cầu về bố trí hồ bơi và thiết lập hồ bơi cần được sửa đổi cho phù hợp.
Xem xét và đánh giá rủi ro về tải trọng người học tối đa & tỷ lệ giữa giáo viên và người bơi.
Người bơi phải được giữ trong khu vực học bơi đã được phân bổ cho họ:
- Sử dụng các đánh dấu khu vực cho mỗi trạm bơi để hiển thị điểm vào nước và rời khỏi nước rõ ràng
- Không cho phép học viên bơi qua lớp khác bất cứ lúc nào
- Cân nhắc có thể kết hợp các giai đoạn học hay không và gợi ý trẻ em trong cùng một gia đình sẽ tập cùng một nhóm nếu khả năng của họ phù hợp.
9. Các khu vực dành cho người xem cần được xem xét và bố trí lại để đảm bảo tuân thủ giãn cách xã hội
Điều này đồng nghĩa với việc giảm sức chứa tối đa của khu vực quan sát buổi học.
Nếu được yêu cầu, chỉ có hoặc cha hoặc mẹ hộ tống người bơi đến tất cả các hoạt động.
Phụ huynh nên được khuyến khích chỉ tham dự vào giờ học của con mình.
Cần chia sẻ thông tin rõ ràng về các biện pháp giãn cách xã hội với cha mẹ / người chăm sóc. Hiển thị bảng chỉ dẫn tạm thời và sử dụng các mũi tên chỉ hướng để thể hiện những thay đổi đối với cha mẹ / người chăm sóc.
Cân nhắc đóng cửa các khu vực có người xem nếu thích hợp hoặc nếu việc giám sát có thể khó khăn.
Trong trường hợp gần như không thể có giãn cách xã hội trong khu vực người xem, hãy xem xét các cách thay thế để quản lý việc xem / quan sát các buổi học. Ví dụ:
- Qua màn hình TV ở các khu vực lớn hơn nếu có.
- Xem xét ưu tiên cho xem các giai đoạn học bơi ban đầu hoặc trẻ em có nhu cầu hỗ trợ bổ sung.
- Đặt một hệ thống thông báo cho những phụ huynh có thể phải đợi bên ngoài cơ sở.
10. Thực hiện quay trở lại học bơi theo từng giai đoạn.
Khi các bể bơi bắt đầu mở cửa trở lại, nên cân nhắc việc khởi động lại theo từng giai đoạn. Điều này sẽ cho phép cơ sở hoàn vốn linh hoạt để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và đảm bảo tuân thủ COVID-19.
Xem xét việc hợp nhất hai giai đoạn / cấp độ có năng lực tương tự để khắc phục số lượng người tham gia thấp. Trong trường hợp này, hãy đảm bảo rằng việc đánh giá rủi ro và các biện pháp thích hợp được thực hiện.
Cân nhắc việc quay trở lại các buổi học theo kiểu so le, bắt đầu với những người bơi có khả năng cao hơn và cần ít sự hỗ trợ hơn.
Một ý tưởng nữa là bạn nên cân nhắc tổ chức dạy bơi cho gia đình.
Chung Tấn Phong
Tổng hợp và viết lại từ các nguồn Internet